Cạnh Tranh Mỹ - Trung Trong Các Tổ Chức Quản Trị Toàn Cầu, Khu Vực Và Một Số Hàm Ý Đối Sách Của Việt Nam
Nhân loại ngày càng phát triển cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia, các tổ chức ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh của thế giới. Các tổ chức đa quốc gia điển hình như Liên Hợp Quốc tưởng chừng sẽ là một diễn đàn để các quốc gia cùng hợp tác, cùng phát triển và cùng đề phòng những mối an nguy còn tiềm tàng. Thế nhưng kể từ khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra, chúng ta mới có cái nhìn cụ thể và sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa các cường quốc, cụ thể là Mỹ và Trung Quốc trong những “sân chơi” quy mô toàn cầu này!
Ấn phẩm “Cạnh tranh Mỹ - Trung trong các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực và một số hàm ý đối sách của Việt Nam” do TS. Mai Thị Hồng Tâm chủ biên, là một đề tài nghiên cứu cấp thiết về thực trạng quản trị toàn cầu, khu vực hiện nay trên thế giới. Sự phù hợp, sát sao và ứng biến nhanh chóng chính là yếu tố cần để các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực đối mặt với những nguy cơ và rủi ro về an ninh toàn cầu như lương thực, dịch bệnh, tài chính tiền tệ, năng lượng,… Thế nhưng lợi ích chung để đạt được những điều đó đã thực sự diễn ra chưa hay ngay trong chính những tổ chức lớn của thế giới vẫn tồn tại sự cạnh tranh ngầm giữa hai quốc gia được coi là 2 cực của thế giới hiện tại?
Xu hướng thế giới đa cực đã và đang có xu thế xuất hiện, các cường quốc mới nổi lên với các tiềm lực về kinh tế, quân sự chắc chắn sẽ tạo ra những ảnh hưởng đến các tổ chức quản trị toàn cầu, khu vực. Vậy nên Việt Nam cần nắm bắt tình hình để đưa ra những đối sách phù hợp để phát triển đất nước cũng như dung hòa mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc.
Văn Bản Và Hệ Sinh Thái Văn Bản - Việt Điện U Linh Tập Từ Chức Năng Đến Nghệ Thuật
[...] Vấn đề về nội dung - nghệ thuật tạo dựng văn bản - thông điệp nghệ thuật của văn bản Việt điện U linh tập dường như vẫn là một khoảng trống. Các trả lời nhằm lấp dần khoảng trống đó dường như có thể tìm thấy ở chuyên khảo này mà tác giả của nó, TS. Đào Phương Chi, bằng các thao tác nghiên cứu văn bản học một cách cẩn trọng đã đặt ra trong mục tiêu của công trình.
[...] Từ việc hình dung về dòng chảy văn bản Việt điện u linh tập qua thời gian, các giả thiết văn bản học về “bản gần với nguyên tác nhất”, “giả thiết về quá trình truyền bản tác phẩm” được tác giả dựng nên khá thuyết phục.
[...] Ở thời điểm hiện nay, chuyên khảo này là một khảo cứu cặn kẽ nhất, qua đó, các khía cạnh văn bản, cho đến nay, được soi chiếu một cách tỏ tường nhất.
Nước Mắt Ẩn Phu - Đỗ Lệnh Thiện Và Kim Mã Ẩn Phu Cảm Tình Lệ Tập
Trong bối cảnh lịch sử nhiều biến động dữ dội đương thời, giới sĩ đại phu, nhất là các cựu thần nhà Lê có những phương cách ứng xử khác nhau. Riêng Đỗ Lệnh Thiện, ngay từ đầu đã lựa chọn con đường ẩn cư, trở thành một kẻ ẩn phu để giữ trọn khí tiết của mình. Đó là sự lựa chọn nhất quán của ông. Triều Lê được ông quan niệm là “quốc” sụp đổ, rồi cha mẹ, người vợ trẻ mà ông yêu thương nối nhau qua đời… Đỗ Lệnh Thiện rơi vào cảnh “quốc phá gia vong”, sống ẩn cư nơi đất khách. Các triều đại mới lần lượt thay thế nhau, thời thế đã đổi khác nhưng ông vẫn luôn quan niệm mình là kẻ bề tôi côi cút của triều Lê… Do đó, mặc dù sống trên đất nước mình, nhưng ở Đỗ Lệnh Thiện có tâm thái của một kẻ lưu lạc. Ông đem tất cả suy tư, tình cảm bi thiết của mình thể hiện qua thơ ca, tập hợp thành một tập thơ đầy cảm xúc, lấy tên là Kim Mã ẩn phu cảm tình lệ tập.
Qua tập thơ, người đọc thấy được tâm sự cá nhân của Đỗ Lệnh Thiện, đồng thời hiểu hơn về tâm thái kẻ sĩ và lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.
Kinh Thành Huế Trong Thi Họa - Hoàng Đế Thiệu Trị Và Ngự Đề Đồ Hội Thi Tập
Ngự đề đồ hội thi tập nằm trong hệ thống trước tác đồ sộ của Hoàng đế Thiệu Trị - vị vua thứ 3 của vương triều Nguyễn. Tập thơ chia làm 3 phần là Ngự đề Danh thắng đồ hội thi tập - gồm những bài thơ đề vịnh các cảnh đẹp trong cấm thành và danh lam thắng cảnh của kinh đô Huế; Ngự đề Cổ tích đồ hội thi tập - những bài thơ đề vịnh tích cổ trong lịch sử Trung Quốc thể hiện tinh thần giáo huấn hậu thế, làm tấm gương sáng cho cái học đế vương; Ngự đề Nhân vật đồ hội thi tập - gồm những bài thơ vịnh tả sự vật, các loại hoa quả, muông thú, qua đó thể hiện thâm ý đưa sự giáo hóa vào thơ, dùng thơ để đào thục tính tình, di dưỡng tinh thần. Những cảnh vật và tích truyện được đề vịnh trong tập thơ đều có tranh vẽ minh họa.
Tập thơ là sự thể hiện một cách khéo léo tư tưởng, vị thế của vị quân vương cần chính thương dân, luôn ý thức vai trò làm chủ quốc gia dẫu là trong khi ngâm vịnh. Hơn thế nữa, tập thơ còn như một dấu son điểm tô cho nền thịnh trị, mang trong đó khí tượng của một thái bình thiên tử.
Ngoài ra, Ngự đề đồ hội thi tập với đặc điểm độc đáo là sự kết hợp giữa thi và họa, cũng khiến cho tập thơ trở thành một nguồn tư liệu quý minh chứng cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao của một vương triều. Những bức tranh vẽ lại cảnh đẹp kinh đô Huế được tả vịnh trong tập thơ tuy có phần ước lệ nhưng cũng giúp cho chúng ta phần nào mường tượng ra được phong khí của một thời vàng son qua hình ảnh những điện đài lầu gác chốn đế đô mà nay phần nhiều trở thành phế tích.
Đường Tới Quộc Hội Của Nữ Nghị Sĩ Pháp Gốc Việt Đầu Tiên - Phần 1: Tiểu Sử
Chính trị là một lĩnh vực chúng ta phải đi lên dần dần, từ cấp độ địa phương lên cấp độ quốc gia, thông qua những bậc tiếp nối nhau. Hành trình chói sáng mà Nghị sĩ Stéphanie Do đã vươn tới và đạt được ở một vị trí ở tầm vóc quốc gia, sẽ là một nguồn cảm hứng vô cùng lớn dành cho những ai muốn bước chân vào con đường chính trị.
“Sinh ra ở Việt Nam, tới Pháp năm mười một tuổi dù không biết tiếng Pháp, vài năm sau Stéphanie Do đã trở thành nghị sĩ Quốc hội của 68 triệu công dân.
Cô đã đạt tới vị trí này nhờ lòng ngoan cường, ham muốn thành công và cống hiến vì người khác. Không gì có thể làm suy suyển quyết tâm của cô, một quyết tâm giúp cô đánh bại mọi dự đoán. Kể cả nỗi đau buồn khi rời bỏ quê hương đến định cư ở Pháp, vạ vật từ trại tị nạn này qua trại tiếp nhận khác cùng gia đình. Kể cả những khó khăn về vật chất mà cô phải đối diện, cùng ba người anh trai, mẹ là một người kinh doanh buôn bán và cha là một giáo sư toán có bằng cấp ở Việt Nam nhưng không được công nhận ở Pháp. Cha mẹ cô đã phải bỏ lại tất cả ở Việt Nam để tiếp tục hành trình tìm kiếm tương lai xán lạn hơn cho con cái mình. Stéphanie Do đã chứng tỏ bản thân xứng đáng với sự kỳ vọng này. Cô đã nắm bắt mọi cơ hội mà nước Pháp mang đến cho mình và đã đền đáp cho nước Pháp gấp trăm lần.”
(Trích Lời giới thiệu của Tổng thống Cộng hòa Pháp Emmanuel Macron)
Cuốn sách được chia bố cục 6 chương, bao gồm:
- Chương đầu tiên giới thiệu về gia đình và tổ tiên của Nghị sĩ Stéphanie Do.
- Chương 2 và 3 là hành trình bắt đầu đến Pháp cũng như khát khao trong học tập để thay đổi cuộc sống, những khó khăn, trở ngại và thành tựu đạt được qua các trường lớp.
- Chương 4 và 5 là hành trình chinh phục con đường công chức và bước vào chiến dịch để trở thành Nghị sĩ.
- Chương 6 kể về quá trình trở thành một Nghị sĩ từ khi được đề cử đến khi đắc cử và đâu là nguồn động viên lớn nhất của Nghị sĩ Stéphanie Do.
Khi đọc xong “Đường tới Quốc hội của nữ Nghị sĩ Pháp gốc Việt đầu tiên”, bạn sẽ nhận được đáp án cho câu hỏi: “Làm thế nào mà tôi lại được bầu làm đại biểu Quốc hội?” và “Hãy cùng tôi bước vào địa hạt thấm nhuần ý chí, kiên định, khổ luyện và đầy thách thức nhé.” – Stéphanie Do
Cuốn sách thuộc Tủ sách Nhân vật của Omega Plus Books, được viết dành cho độc giả phổ thông, những người yêu thích thể loại hồi kí, tiểu sử nhân vật; và muốn tìm hiểu về chính trị nói chung và chính trị Pháp nói riêng.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Stéphanie Do – Sinh ngày 20/12/1979 tại Sài Gòn. Cô di cư sang Pháp năm mười một tuổi; đến năm 2017, cô trở thành Nghị sĩ quốc hội của 68 triệu công dân và cũng là nữ nghị sĩ Pháp gốc Việt đầu tiên.
Vương Quốc Ryukyu Trong Hệ Thống Thương Mại Đông Á Thế Kỷ XV-XIX
Tồn tại 444 năm trong diễn trình lịch sử thế giới (1424-1867), đã từng có một Vương quốc Ryukyu nằm phía đông bán cầu với nền kinh tế - hải thương phát triển, ảnh hưởng tới nhiều quốc gia lân cận - đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á.
Giới lãnh đạo thành Shuri đã có những nhìn nhận nhạy bén về chính trị - kinh tế giao thương trên thế giới để duy trì vương quốc của mình trên cán cân quyền lực, giảm thiểu những xung đột giao tranh. Chính điều này đã góp phần khiến cho quốc đảo trở thành một hiện tượng phát triển đặc biệt và hiếm có trong lịch sử Đông Á thời bấy giờ.
Với tác phẩm “Vương quốc Ryukyu trong hệ thống thương mại Đông Á thế kỷ XV - XIX”, tác giả - TS. Lê Thị Khánh Ly đã mở ra những góc tiếp cận mới nghiên cứu chuyên sâu về Vương quốc Ryukyu tại Việt Nam, trả lời cho những câu hỏi về một quốc đảo đã từng hưng thịnh rất nhiều năm về trước. Với 20 năm chuyên tâm khảo cứu và phân tích đánh giá, tác giả không chỉ đề cập tới địa kinh tế của Ryukyu, mà còn quan tâm tới những đặc sắc văn hóa của quốc đảo, đặt trong cả bối cảnh riêng lẫn bối cảnh chung khi Ryukyu đã sáp nhập và trở thành tỉnh Okinawa thuộc Nhật Bản.
Cuốn sách sẽ góp phần giúp bạn hiểu rõ thêm về lịch sử thế giới, định vị một quốc đảo với tư tưởng chính trị, phát triển kinh tế cấp tiến, cùng với đó là nền văn hóa đậm nét Á Đông mà cho tới bây giờ vẫn còn ghi lại dấu ấn.
Ma Thuật, Bùa Chú Và Tục Việt Vu Kê Bốc Trong Tín Ngưỡng Dân Gian Của Người Việt
Một giới thiệu tổng quan về vu thuật của người Việt
Bùa chú từ thuở sơ khai của con người đã xuất hiện với nhiều ý nghĩa được gán vào, thể hiện mong ước của con người về sức khỏe, hạnh phúc và cuộc sống trần thế. Tùy theo hình thức và hình ảnh mà chúng thể hiện, người ta cho là bùa có năng lực truyền cho con người sức khỏe, trí khôn, sự tươi vui trong cuộc sống và những lạc thú thân xác
Chỉ qua xem xét về mặt ngôn ngữ theo lối duy danh định nghĩa, rõ ràng đã cho thấy bùa không chỉ có ở những nước sử dụng chữ Hán, mà nó còn được sử dụng bằng cả những loại hình văn tự hoặc ký hiệu khác từ thời Ai Cập cổ đại để canh giữ xác ướp. Điều này cũng đã hé lộ khía cạnh tâm linh của bùa, một khía cạnh vô cùng quan trọng của bùa chú. Như vậy, có thể coi tín ngưỡng, tôn giáo như là nền tảng văn hóa tâm linh về bùa chú của người Việt. Chính vì vậy, tác giả Kiều Thu Hoạch chủ trương tìm hiểu cội nguồn bùa chú của người Việt trong cộng đồng Bách Việt, với tục “Việt vu kê bốc”, thông qua công trình Ma thuật, bùa chú và tục Việt vu kê bốc trong tín ngưỡng dân gian của người Việt.
CHÚ GIẢI:
Việt vu kê bốc – Tục bói gà trong vu thuật của người Việt. Phạm Thành Đại (1126-1193) đời Tống trong Quế Hải ngu hành chí ghi chép khá tường tận về tục bói gà của người Việt: “Bói gà, đó là phép bói của người Nam, lấy gà trống bó chặt hai chân, đốt hương cúng bái nói điều cần bói, sau đó giết gà, rửa sạch xương đùi mà xem điều lành dữ. Có 18 phép để xét điều tốt xấu. Họ còn bói cả trứng gà, vẽ mực đen lên vỏ trứng, sau khi đã luộc, xem chỗ dấu mực vẽ mà đoán điềm lành dữ”
Thiên Chúa Giáo Và Khoa Học Kĩ Thuật Phương Tây Trong Xã Hội Việt Nam-Trung Quốc Thế Kỉ XVI-XVIII (Sách Chuyên Khảo)
Qúa trình giao lưu và hội nhập văn hóa Đông – Tây vẫn luôn diễn ra một cách sôi nổi từ trong lịch sử cho tới hiện tại. Đặc biệt là sau các cuộc Phát kiến địa lý thế kỷ XV-XVI, khi kỹ thuật hàng hải có những tiến bộ nổi bật, cùng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây đã thúc đẩy quá trình này mạnh mẽ hơn nữa. Các quốc gia châu Âu đã hướng tầm mắt sang khu vực Viễn Đông với nhiều tham vọng về chính trị, xã hội và văn hóa. Vốn dĩ vì các quốc gia ở ở Đông bán cầu có những tiềm lực mạnh mẽ về của cải, sản vật và đặc biệt nhất là con người. Dựa trên lý tưởng đó, những luồng thổi văn hóa mới đã theo chân các tàu buôn phương Tây đến với những vùng đất màu mỡ phương Đông, điển hình là Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó mở đầu cho công cuộc truyền bá một tư tưởng mới, một đức tin mới vào hai nền văn hóa cổ phương Đông – đó chính là Thiên Chúa giáo – một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới hiện nay.
Công trình nghiên cứu “THIÊN CHÚA GIÁO VÀ KHOA HỌC KỸ THUẬT PHƯƠNG TÂY TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC THẾ KỶ XVI-XVIII” được xuất bản trên cơ sở phát triển từ luận án Tiến sĩ, mà TS. Trương Anh Thuận bảo vệ thành công tại Học viện Lịch sử và Văn hóa, Đại học Sư phạm Hoa Trung (Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc).
Cuốn sách đem đến cho bạn đọc những góc nhìn cụ thể và chi tiết về quá trình truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây khi đặt chân đến Việt Nam và Trung Quốc trong khoảng thời gian thế kỷ XVI – XVIII. Các dòng tu với sứ mệnh từ Tòa thánh đã ảnh hưởng đến các giai cấp, đời sống nhân dân của hai nước Việt – Trung như thế nào? Thái độ của giai cấp cầm quyền hai nước đối với loại hình tôn giáo mới này ra sao? Ủng hộ hay phản đối? Tất cả đều đã được TS. Trương Anh Thuận đề cập rõ nét trong cuốn sách này. Bên cạnh đó, vì sao các nhà truyền giáo lại chọn lĩnh vực khoa học kỹ thuật như thiên văn học hay y học để “làm thân” với giới chức cầm quyền của hai quốc gia Việt Nam, Trung Quốc, phải chăng có mục đích chính trị hay chỉ đơn thuần xuất phát từ mong muốn mượn sức mạnh từ họ để tiến hành quá trình “Thiên Chúa giáo hóa”? Bạn đọc hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về ấn phẩm để có được câu trả chính xác nhất!
Xuân Thu Sử Thi Bắc Kỳ - Bìa Cứng
Ký ức - Chiến tranh - Đông Dương, dù trải qua bao nhiêu năm tháng lịch sử, ta cũng không thể nào quên được một thời kỳ đầy khói lửa. Nhưng lịch sử không phải chỉ có màu đỏ của máu, của lửa, màu đen của khói, của cát bụi, lịch sử còn có những bức tranh chứa đựng màu sắc của riêng nó, tươi sáng hơn, hoài niệm hơn! Như câu chuyện về bà chủ đồn điền Eliane Devries hay viên trung úy Jean Baptiste (phim Đông Dương của đạo diễn Régis Wargnier, 1992), họ đều có những lý do rất “con người” để gắn bó máu thịt và luyến tiếc xứ sở này.
"Xuân Thu Sử thi Bắc Kỳ" chính là một tác phẩm mang tinh thần như vậy, khi cuốn sách là sự tổng hòa, là sự giao thoa của triết lý, văn hóa Đông - Tây do vị Giáo sư người Pháp - Pierre Foulon chắp bút. Đây có lẽ là một cuốn sách “lạ lùng”, lạ lùng khi 4 chương của cuốn sách được gọi tên bằng 4 mùa xuân - hạ - thu - đông. Lạ lùng khi lời dẫn đầu được viết bằng một phong cách rất thơ - “Lời ngỏ bên thềm” (Paroles sur Le Perron). Và thật lạ lùng khi P. Foulon đã đem đến một cuộc đối thoại vô hình trong tưởng tượng (Palinodies) của hai nhà hiền triết Đông - Tây là Khổng Tử và Socrate.
Bốn chương của cuốn sách được dựa trên cảm hứng “triết học tứ quý” của Kinh Xuân Thu và sách Lễ ký của triết học Khổng Tử. Nhưng điều P. Foulon bàn luận tới có lẽ cởi mở hơn vì Xuân thu sử thi Bắc Kỳ chứa đựng những trang sách hấp dẫn về khía cạnh tôn giáo của lễ hội, trong khi nhà hiền triết của nước Lỗ cho rất ít thông tin về đời sống tín ngưỡng trong “Xuân Thu” của mình. Từ những vấn đề đầy lý luận như thơ ca, triết học, nghệ thuật dân gian, chính trị, thời cuộc, cho tới các khía cạnh gắn liền với hiện thực như lối sống, nghi lễ, dịch bệnh, công việc đồng áng (tịch điền) hay những chủ đề “siêu thực” về “cái chết”, “bóng đêm” đều được tác giả phân tích sâu sắc.
Nếu nói cả cuốn sách này là một sự tổng hòa về nghệ thuật thì cũng không sai, khi việc thiết kế trình bày sách được thực hiện bởi chính họa sĩ Tô Ngọc Vân - một trong bốn tứ trụ của nền hội họa Việt Nam. Tranh bìa được họa sĩ Nguyễn Tiến Lợi làm từ tranh khắc dân gian thường bày bán trong dịp giáp Tết trên hè phố và chợ Bắc Kỳ với motif Tranh Tam Đa quen thuộc, gợi lên một dấu ấn quen thuộc từ lịch sử cho bất cứ ai sở hữu.
TRI THỨC CỦA CHÚNG TA VỀ NGOẠI GIỚI
Bertrand Russell (1872-1970) là một trong những nhà tư tưởng quan trọng nhất của thời hiện đại. Là một nhà triết học, toán học, nhà cải cách giáo dục, nhà trí thức cổ vũ tự do tình dục và tự do xã hội, một nhà vận động cho nhân quyền và hòa bình, ông đồng thời là tác giả của nhiều quyển sách, tiểu luận, và bài giảng mang tính đại chúng và có ảnh hưởng về nhiều chủ đề khác nhau.
Được xem là một trong những gương mặt gây tranh cãi nhất của thế kỉ XX, Russell cực kì nổi tiếng vì những tác phẩm khiêu khích của ông. Các tác phẩm này mang lại những cái nhìn sâu sắc và quan điểm tư tưởng tiến bộ về một xã hội phương Tây đang biến chuyển và tiến bộ, nhất là giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, sự suy tàn của chủ nghĩa đế quốc Anh và bối cảnh đạo đức đầy biến động.
Tri thức của chúng ta về ngoại giới là tập bài giảng Bertrand Russell giảng ở Mỹ, trong đó ông đặt những câu hỏi về tính quan yếu và tính chính đáng của triết học. Ông khảo sát mối quan hệ giữa tri thức ‘khoa học’ và tri thức ‘cá nhân’ và đặt câu hỏi về cách thức chúng ta có thể hiểu về thế giới vật lý của chúng ta. Đây là tác phẩm bùng nổ và gây tranh cãi, nó đưa ra những ví dụ cho thấy các tuyên bố của các triết gia là quá mức như thế nào, và khảo sát tại sao thành tựu của họ không thể đạt được tầm vóc lớn hơn.
Văn minh Ấn Độ cổ đại là một trong những "cái nôi" văn hóa của văn minh cổ đại nhân loại. Cái làm căn bản cho nền văn minh chính là tư tưởng, tức là triết lý qua đó thể hiện quan niệm về sự sống. Ấn Độ gần chúng ta về địa lý nhưng hầu như chúng ta còn rất ít quan tâm về văn hóa, mặc dù đạo Phật, vốn phát xuất từ Ấn Độ, là tôn giáo của đại đa số người Việt chúng ta.
Triết lý Ấn Độ thâm sâu, bí ẩn và phức tạp đã đưa đến sự đa dạng về tín ngưỡng. Mỗi nhà hiền triết là một đạo sư, được sùng bái như một thủ lĩnh tôn giáo, và ở Ấn Độ, tín ngưỡng nào cũng có chỗ đứng trong xã hội. Triết lý Ấn Độ là một loại triết lý chứng thực, nghĩ ra là để trải nghiệm, để sống, chứ không phải chỉ để tư duy và luận giải.
Trong bối cảnh đó, truyền thống đóng một vai trò quan trọng. Mọi tôn giáo, dù cách tân bao nhiêu, muốn đứng vững đều phải mang một số yếu tố giữ lại từ truyền thống. Lịch sử tôn giáo Ấn Độ cung cấp cho chúng ta rất nhiều ví dụ về những ý tưởng mà con người hít thở cùng với không khí trong đó họ sống, và những ý tưởng đó bằng cách nào đó đã đi vào bản chất của tâm hồn tập thể.
Một khi những ý tưởng đó đã “đăng ký thường trú”, thì hầu như chúng bất biến, mặc dù đôi khi có thay đổi đôi chút, cả trong những sáng tạo mà thoạt nhìn có vẻ như độc đáo lắm. Những ý tưởng đó phát sinh thế nào, tiến hóa ra sao, đi từ một hệ thống này sang một hệ thống khác như thế nào, cuối cùng là làm thế nào chúng đã từ từ nhào nặn nên tâm tư của một nước Ấn Độ mà chúng ta thấy vừa hấp dẫn vừa xa lạ.
Cái mà chúng ta gọi là "Triết học Ấn Độ" không phải là một công trình "vô tư" hay khoa học để hiểu mình và thế giới, mà là một sự cố gắng anh dũng để, qua một vị thầy, một truyền thống, hay những kỹ thuật khổ hạnh, mà tự mình thức tỉnh khỏi giấc mơ, có người nói là cơn ác mộng của đời sống.
Để hiểu công trình đó, ta phải đi vòng qua bộ kinh sách cổ nhất của Ấn Độ, kinh sách Veda. Đó là một bộ sách đồ sộ, hỗn tạp, trong đó cùng chứa những huyền thoại vũ trụ luận, những quy định về nghi lễ hiến sinh, những công thức ma thuật, những cách xuất thần, …Từ tập hợp đó xuất phát những cuốn Upanishad (được viết trong khoảng thời gian giữa thế kỷ X và thế kỷ VI trước Tây lịch) với những ý tưởng chỉ đạo là : con người là một vũ trụ thu hẹp, việc hòa nhập vào vũ trụ rộng lớn là một sự tất yếu, do đó cần có sự hòa đồng với trời đất thần thánh qua những nghi thức tế lễ, qua cuộc sống khổ hạnh, qua những kỹ thuật yoga siêu nhiên, nhằm thông qua tri thức mà đạt được sự giải thoát.
Những nhà thần thông Ấn Độ có khả năng chọc thủng những bí ẩn của thiên nhiên và đời sống, và giải đáp những bí ẩn của vũ trụ bằng cảm quan tôn giáo, rồi truyền lại cho thế nhân qua các kinh sách Veda và hàng trăm cuốn thánh thư Upanishad, hoặc qua các sử thi anh hùng ca Mahabharata, Bhagavad-Gita, và Ramayana. Bao nhiêu kinh sách đó chứa những lý thuyết về vũ trụ, về luân hồi sinh tử, về linh hồn và Thượng đế, về Brahman và Isvara, về sự giải thoát.
Dần dần những tư tưởng thần học được hệ thống hóa thành sáu hệ triết học chính thống và bao nhiêu hệ khác. Ba hệ chính thống quan trọng nhất là Vedanta, Sankhya và Yoga: Hệ Vedanta với quan niệm về hữu thể và sự biến dịch, hành động và sự nhận thức, linh hồn cá nhân và linh hồn vũ trụ, sự vô thực của vũ trụ và sự giải thoát qua nhận thức. Hệ Sankhya với lý thuyết về nhân quả, về bản thể prakriti và thần ngã purusa. Hệ Yoga với lý thuyết về thực hành làm sao để đạt đến tâm an lạc.
Những hệ phái triết học ấy đã đi kèm những tôn giáo từ đạo Veda, qua đạo Brahman, đến Ấn Độ giáo, với những đặc điểm về quan niệm về nghiệp, về sự bất bạo động, sự ăn chay, sự phân biệt đẳng cấp xã hội, sự thờ cúng các vị thần, sự hiến sinh và khổ hạnh.
Trong những hệ phái không chính thống (không công nhận thẩm quyền tối thượng của Veda) đặc biệt có đạo Phật. Phật giáo ở đây được trình bày và đặt lại trong khung cảnh lịch sử và địa-xã hội, trong sự huyền bí và tính thuần lý của triết học Ấn Độ. Ngoài những quan niệm truyền thống về nghiệp, nhân quả, luân hồi, đạo Phật có nhiều sự đổi mới trong tư duy, về nghiệp, về ngã và vô ngã, về vô thường, khổ và con đường diệt khổ, cùng những quan niệm mới về ngũ uẩn và sự đồng sinh duyên khởi. Lý thuyết của đức Thế tôn đã phân hóa thành hai nhánh Đại thừa và Tiểu thừa; trong Đại thừa lại có nhiều tông, mà hai tông chính về mặt tư tưởng là Trung Quán và Duy Thức.
Phan Thanh Lưu là tác giả, tiến sĩ khoa học, một nhà nghiên cứu về sinh hóa và sinh học phân tử, từng công tác tại viện Max Planck (Đức) và CNRS (Trung Tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học, Pháp). Sau khi nghỉ hưu, ông đã quay sang tập trung vào tư tưởng của những nền văn minh cổ. Trong cuốn sách này, tác giả muốn chuyển tải cho bạn đọc, đặc biệt cho giới trẻ trong nước, những nét cơ bản về triết học Ấn Độ, đặc biệt về Phật giáo từ nguồn gốc Ấn Độ.
LỜI KÊU GỌI HÀNH ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO Ở KHẮP NƠI
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC BẤT CÔNG ĂN SÂU VÀO TOÀN HỆ THỐNG đã trở thành thách thức cơ bản của thời đại chúng ta. Người ta đang kêu gọi gây áp lực lên những tổ chức đang tụt lại đằng sau các thay đổi về xã hội và nhân khẩu học. Đối với nhà lãnh đạo, sự hiểu biết về vai trò và trách nhiệm của họ đối với người khác - và đối với xã hội - đang gặp thách thức và đang bị chất vấn. Cả những tổ chức lẫn những nhà lãnh đạo đều đang phải nỗ lực vượt qua khung cảnh đầy biến động này, trong sự quan tâm theo dõi của công chúng.
Trong ấn bản thứ hai của cuốn sách bán chạy nhất này, chuyên gia về cách lãnh đạo dung hợp Jennifer Brown chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc với trên hai mươi năm kinh nghiệm làm việc với nhiều tổ chức nhằm kiến tạo nơi làm việc công bằng để mọi người phát triển và gắn bó. Được nhiều người khen ngợi, Chuỗi Liên hoàn của Nhà lãnh đạo Dung hợp (Inclusive Leader Continuum) cung cấp cơ cấu để dẫn dắt những cá nhân đi qua hành trình học tập riêng biệt nhằm trở thành nhà lãnh đạo dung hợp. Những câu chuyện, chiến lược, và sự hướng dẫn thảo luận mới mẻ trang bị cho nhà lãnh đạo ở bất cứ cấp độ nào để họ hành động và bước vào vai trò thay đổi một cách hiệu quả. Đối với những nhà lãnh đạo ủng hộ sự công bằng và hòa nhập, hoặc những ai chỉ mới bắt đầu nhận ra sự bất công trên sân chơi này, đây là cuốn sách phải đọc và là công cụ cần thiết để dẫn dắt đội ngũ tiến tới tương lai.
Đánh giá về cuốn sách Lãnh Đạo Dung Hợp - How To Be An Inclusive Leader
“Cuốn sách này mang tính giáo dục, khả thi, và có nhiều công cụ thực tiễn để giúp những cá nhân cất lên tiếng nói và xây dựng năng lực trở thành nhà lãnh đạo dung hợp.” - Tiến sĩ ROHINI ANAND cựu Phó Chủ tịch Cao cấp và Giám đốc Đa dạng, Sodexo
“Jennifer Brown có năng lực độc đáo để hướng dẫn các nhà lãnh đạo đi qua địa thế phức tạp của khung cảnh lãnh đạo đang thay đổi.” - MICHELE MEYER-SHIPP; CEO, Dress for Success Worldwide, cựu Giám đốc về Con người và Văn hóa, Major League Baseball
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI HỌC - PIERRE BOURDIEU
Đây là cuốn sách được dịch từ nguyên bản tiếng Pháp Questions de sociologie – Những vấn đề của xã hội học, của P. Bourdieu, một trong những nhà xã hội học quan trọng nhất của nước Pháp nửa sau thế kỷ XX. Cuốn sách do hai nhà xã hội học Việt Nam là Nguyễn Quang Vinh và Trần Hữu Quang dịch thuật.
Cái thú vị của cuốn sách này là nó tập hợp các bản ghi chép những cuộc phỏng vấn sinh động của nhiều phóng viên với P. Bourdieu về những vấn đề nóng hổi của xã hội học gắn liền với thời sự nước Pháp trong những năm nửa sau của thế kỷ XX. Cuốn sách đề cập trực diện nhiều vấn đề cơ bản và khá gai góc của xã hội học trong bối cảnh đời sống chính trị-xã hội của nước Pháp mấy chục năm trở lại đây.
Là người bảo vệ mạnh mẽ cho giá trị của xã hội học với tư cách là một ngành khoa học, P. Bourdieu viết như sau : "Trong ngành xã hội học, có những giả thuyết gắn bó với nhau, những khái niệm, những phương pháp kiểm chứng, tức là tất cả những gì người ta thường gán cho một ngành khoa học. Vì thế, tại sao lại không gọi đó là một ngành khoa học, khi thực sự nó là như vậy ?" P. Bourdieu cho rằng sức khám phá của môn học đặc biệt này – trong bối cảnh văn hóa-xã hội của nước Pháp – khiến cho một số người sợ hãi : "Cái khó khăn đặc biệt khi làm xã hội học thường nằm ở chỗ người ta đều sợ những gì mà họ khám phá ra. Xã hội học không ngừng làm cho những người thực hành nó đối diện với những hiện thực gai góc. Nó [tức xã hội học] thường làm tan vỡ các ảo tưởng !"
Cái khả năng "gỡ mặt nạ” của xã hội học đã hấp dẫn P. Bourdieu và khiến cho ông yêu thích câu nói của nhà triết học Pháp G. Bachelard : "Chỉ có khoa học về cái bị che giấu."
Cuốn sách của P. Bourdieu kể cho ta thấy cuộc phấn đấu không ngừng nghỉ của nhà xã hội học – và của cả công chúng nữa – để xây dựng vững chắc một nền khoa học dấn thân, cùng với một ngôn ngữ khoa học ngày càng sắc bén và không ngừng gần gũi hơn nữa với công chúng.
Tháng 12 năm 2022
Ấn phẩm thứ hai thuộc bộ sách “Huế kỳ bí” có tên “Lăng Gia Long” - tác giả là Linh mục Léopold Cadière, với phần thơ của Charles Patris. Ngay sau khi Hội những người bạn Cố đô Huế được thành lập, L. Cadière đã tham gia Dự án nghiên cứu lập bản đồ lăng mộ tang lễ vùng phụ cận Huế và hội này đã sớm có được những con số tổng hợp đầu tiên rất ấn tượng. Năm 1928, trên tập san Đô thành hiếu cổ (tên gọi quen thuộc hơn của tập san Những người bạn Cố đô Huế), chính L.Cadière đã công bố bài viết đầu tiên về chủ đề “Lăng mộ của người An Nam trong vùng phụ cận Huế”.
Ngược về thượng nguồn qua ngả đồi Nam Giao, ngang qua quần thể lăng Thiệu
Qua từng chương của cuốn sách, bạn đọc sẽ hiểu hơn về vị Hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn, cùng những quan niệm nhân sinh quan mà chính Gia Long đã gửi vào quần thể lăng tẩm mình. Bên cạnh đó “Lăng Gia Long” không những là một khảo cứu tỉ mỉ, mà nó còn mang giá trị ứng dụng rất cao, khi tác giả tập sách với ngòi bút khoáng đạt và lịch lãm của mình đã hướng tới một cuốn sách mà ngày nay ta quen gọi là sách “Hướng dẫn du lịch” - rất chuyên nghiệp - và phục vụ mục tiêu “du lịch tâm linh”.
Qua thiên khảo cứu này của L. Cadière, bạn đọc có thể biết thêm những “sử liệu” sống động liên quan đến một trong những lăng tẩm lớn nhất, tiêu biểu nhất của xứ Huế: Lăng Gia Long, cũng như chúng ta có dịp được nghiệm sinh sâu sắc hơn trong “đời sống tâm linh”, thế giới bên kia của các đấng đế vương triều Nguyễn và những giá trị văn hóa nghệ thuật vật thể hay phi vật thể ở không gian đặc biệt này quanh Cố đô Huế.
Diễn thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX giới thiệu với bạn đọc gần 40 bài diễn thuyết của Hội Trí Tri trong thời gian từ năm 1921 đến năm 1945, trong đó sớm nhất là bài diễn thuyết “Tục ngữ, ca dao” năm 1921 của Phạm Quỳnh và muộn nhất là bài diễn thuyết “Muốn cứu trẻ em mù thì phải làm thế nào?” của bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên năm 1945.
Hội Trí Tri (tên đầy đủ là Hội Trí Tri Bắc Kì) với tên gọi ban đầu là Hội Tương tế Bắc Kì, một tổ chức xã hội giáo dục ở Bắc Kì và là một phần của phong trào “chủ nghĩa hiện đại Pháp” được thành lập tại Hà Nội ngày 01 tháng 4 năm 1892 nhằm mục đích nâng cao dân trí.
Cuốn sách là tuyển chọn những bài diễn thuyết của các hội viên Hội Trí Tri với các chủ đề về: văn hóa, lịch sử, tộc người, danh nhân lịch sử, văn chương, mỹ thuật, di tích thắng cảnh và y khoa. Trong đó, nhiều hội viên Hội Trí Tri đã thành danh nhân được đặt tên phố, tên đường như: Song An Hoàng Ngọc Phách, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Xuân Nguyên; nhiều người là học giả để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đỗ Thận, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Can Mộng; Tràng Kiều Lê Tài Phúng, Sở Cuồng Lê Dư và nhiều tác giả còn tương đối lạ đối với bạn đọc ngày nay như: Bùi Quang Huy, Đỗ Đức Trí, Đỗ Đức Vượng, Đỗ Thúc, Bùi Văn Lăng, Tô Văn Cần, Ngô Ngọc Kha, Nguyễn Văn Điện, Trần Hàm Tấn, Trần Thọ Huy...
Nội dung các bài diễn thuyết toát lên tinh thần yêu quốc văn, yêu dân tộc, yêu văn hóa Việt, tinh thần gìn giữ và phát huy văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam, tinh thần làm rõ và tán dương công trạng của các danh nhân lịch sử của dân tộc và các nội dung khác về dân tộc học, y học và danh lam thắng tích.
Ở phương Tây, ta thường nghĩ Hy Lạp và La Mã là hai đế chế giúp dẫn đến sự phát triển của thế giới hiện đại. Mặt khác, đế chế Mông Cổ và Thành Cát Tư Hãn không được các sử gia phương Tây chú ý nhiều. Mỗi khi được nhắc đến, chủ đề này đều bị đặt trong một bối cảnh tiêu cực, với những câu chuyện về sự tàn bạo và hiếu chiến.
Tuy nhiên, câu chuyện về Thành Cát Tư Hãn và đế chế của ông rất thú vị và đáng để kể lại. Từ thời thơ ấu gian khó của Thành Cát Tư Hãn đến quá trình xây dựng đế chế thương mại đầu tiên, cho đến sự kết nối chặt chẽ với các lục địa châu Âu và châu Á, quyển sách Thành Cát Tư Hãn Và Sự Hình Thành Thế Giới Hiện Đại sẽ kể lại câu chuyện có thật về vị hoàng đế này.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CUỐN SÁCH
“Có rất ít thời gian để đọc khi tôi nhận công việc mới. Nhưng trong số ít những thứ đã đọc, cuốn sách yêu thích của tôi là Thành Cát Tư Hãn Và Sự Hình Thành Của Thế Giới Hiện Đại của Jack Weatherford. Nó đã miêu tả thành cát tư hãn dưới một góc nhìn hoàn toàn mới, cho thấy rằng ông là một nhà lãnh đạo tuyệt vời…” – Manmohan Singh, Thủ Tướng Ấn Độ
“Cuốn sách đọc như Iliad vậy…Vừa mang tính ký sự vừa mang tính sử thi.” – The Washington Post
“Khó có người nào với khởi đầu bất hạnh đến the lại có thể đạt đến những thành tựu lớn lao như vậy, ngoại trừ Chúa Jesu.” – Harper’s Magazine
VỀ TÁC GIẢ
Jack Mciver Weatherford là giáo sư Nhân học tại Đại học Macalester ở Minnesota. Năm 2006, ông được trao huân chương Polar Star, sự vinh danh cao nhất của Mông Cổ dành cho người nước ngoài. Ông đã phát biểu tại Liên Hợp Quốc trong dịp kỉ niệm 800 năm ngày thành lập quốc gia Mông Cổ.
Hoàng Hoa Thám, còn gọi là Đề Dương, Đề Thám ("Đề đốc" Thám) hay Hùm thiêng Yên Thế, là người lãnh đạo cuộc chống ( – .
Dù những tư liệu về Đề Thám và Yên Thế đã có mặt trong nhiều tác phẩm, tư liệu khảo cứu, nhưng việc xác định góc nhìn của của độc giả đương thời về con người và cuộc khởi nghĩa này vẫn chưa được hoàn chỉnh, mặc dù có thể đã đi theo những lối mòn về việc phân tích cái đúng, cái sai của nhân vật cũng như sự kiện lịch sử này.
Để mang đến một góc nhìn có hơi hướng khác và cũng như có một chứng kiến rõ ràng hơn, chúng tôi mang tới với độc giả cuốn Hoàng Hoa Thám, nhưng Đề Thám và Yên Thế sẽ được khảo cứu dưới góc phân tích của Paul Chack (với tư cách là trợ lý cho các Toàn quyền Đông Dương trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc đàn áp khởi nghĩa Yên Thế (1909-1910) ông đã ghi lại cuộc đời của Hoàng Hoa Thám - thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa này qua cuốn " Giặc Hoàng Thám" xuất bản tại Pháp năm 1933).
Một góc nhìn mới, Một người khảo cứu mới, Liệu có thể thỏa mãn cái tò mò của độc giả ? Hãy nhanh tay sở hữu cuốn sách như tự mình tìm câu trả lời nhé.
Đã từ lâu, Huế luôn mang trong mình những nét đặc trưng vốn có, đó là vẻ đẹp thơ mộng, nhẹ nhàng và đằm thắm. Thế nhưng sức hấp dẫn của Huế không chỉ đến từ vẻ đẹp bên ngoài, mà nó còn đến từ sự thôi thúc khám phá cho đến tận cùng đối với bất cứ ai trót say đắm. Có lẽ vậy mà ngay cả với những trí thức người Pháp, khi buổi đầu tới Việt Nam, đều khao khát muốn hiểu được con người và văn hóa Huế. Đây cũng là một trong những lý do để xuất hiện một hiện tượng văn hóa - xã hội độc đáo, đó là sự ra đời và phát triển của Hội những người bạn Cố đô Huế và cơ quan ngôn luận của nó là bộ tạp chí đồ sộ Tạp chí Đô thành hiếu cổ
Đây cũng chính là nơi mà các tác phẩm về Huế do các học giả, trí thức người Pháp chắp bút ra đời. Với sự đầu tư nghiêm túc và trải nghiệm trực tiếp, họ hiểu, họ yêu mến và họ mong muốn truyền tải đi những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Với ý nghĩa đó, MaiHaBooks đã nỗ lực ấn hành bộ sách “Huế kỳ bí” với 3 ấn phẩm đặc sắc, được dịch thuật và xuất bản lần đầu tiên dựa trên những tư liệu quý giá đăng trên Tạp chí Đô thành hiếu cổ và từ các công trình nghiên cứu chuyên sâu, nhằm mang đến và giới thiệu tới độc giả nét đẹp bí ẩn của vùng đất Huế xưa, trải dài từ những hàng cây, lăng tẩm tĩnh mịch cho tới một kinh thành đầy cổ kính, dưới góc nhìn của những trí thức Pháp ưu tú.
Ấn phẩm mở đầu cho bộ sách “Huế kì bí” có tên: “Huế điều kỳ bí (Huê la mystérieuse)”. Nội dung của cuốn sách dù dưới ngòi bút của một ông “quan cai trị” (Loius Chochod) nhưng chắc hẳn sẽ gây nhiều bất ngờ với bạn đọc bởi nội dung phong phú, thậm chí “lạ lùng” khi tác giả mở đầu bằng những khái niệm rất cơ bản của Khổng giáo và Nho học; từ thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ luận của các nhà hiền triết Trung Hoa cổ đại. Với 5 chương phân tích và lý giải, khám phá các hiện tượng từ con người, xã hội, sự sống, dấu ấn tâm linh, cuộc sống thế tục cho tới những chuyển biến kinh tế, xã hội, tri thức đầu tiên của xứ Huế theo hướng “hiện đại hóa”, Loius Chochod đã cho ta biết về những giá trị văn hóa tinh thần của xứ Huế mà chúng ta mãi vẫn muốn tìm kiếm...
Những Người Bồ Đào Nha Tiên Phong Trong Lĩnh Vực Việt Ngữ Học (Cho Đến 1560)
“Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học (cho đến 1650)” là cuốn sách được biên soạn bởi GS. Roland Jacques – một học giả, nhà khoa học nổi tiếng người Pháp. Cuốn sách luận bàn tới tên tuổi cùng sự đóng góp của những người Bồ Đào Nha đầu tiên trên con đường học tập, thiết lập và truyền bá ngôn ngữ La Tinh cho người Việt.
Đa số người Việt hiện nay đều chỉ biết tới Alexandre de Rhodes như là người duy nhất và đầu tiên sáng tạo ra bộ chữ Quốc ngữ. Chỉ một số ít quan tâm tới ngôn ngữ học biết tới những tên tuổi có đóng góp khác cho ngôn ngữ Việt như Gaspa de Amaral hay Francisco de Pina. Và đây chính là sự thiếu sót trong việc phổ cập tri thức.
Ấn phẩm không chỉ mang đến cho bạn đọc những câu chuyện cụ thể về vai trò thật sự của Alexandre de Rhodes trong “lòng một công trình tập thể” đồ sộ này mà còn đề cập đến nhiều nguồn tài liệu viết tay khác chưa được xuất bản của giáo sĩ Francisco de Pina – người thầy dạy chữ tiền Quốc ngữ cho A. de Rhodes – hoặc các tài liệu khác viết và nghiên cứu về ông.
“Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học (cho đến 1650)” chắc chắn sẽ là nguồn tư liệu hữu ích và cần thiết cho những người quan tâm tìm hiểu lĩnh vực Việt ngữ học buổi sơ khai.
Bộ Giáo Trình Hán Ngữ Trung Cấp này được biên soạn trên cơ sở bộ Giáo Trình Hán Ngữ, phàm là học sinh nước ngoài đã học khoảng 2500 từ ngữ thường dùng của tiếng Hán đều có thể sử dụng. Từ mới của cuốn giáo trình này tiếp nối bộ Giáo Trình Hán Ngữ Quyển Ba, thích hợp cho người học tiếng Hán năm thứ hai, mỗi bài được học trong khoảng 6-7 tiết. Tuy nhiên đơn vị dạy có thể sử dụng linh hoạt theo đối tượng và tình hình cụ thể.
Cấu trúc của giáo trình này gồm 6 mục:
1. Bài đọc: Nguyên tắc biên soạn bài đọc là chú trọng lựa những bài văn có cốt truyện hay, dễ hiểu, nội dung mới mẻ lành mạnh, câu chữ đẹp, quy phạm làm tài liệu. Tất cả phần tài liệu gốc đều đã được cân nhắc kĩ lưỡng và viết lại nghiêm túc cẩn thận.
Sau mỗi bài đọc đều có bài tập hỏi đáp. Những câu hỏi bài tập đưa ra dùng để kiểm tra mức độ hiểu đối với bài đọc và năng lực diễn đạt tổng hợp của học sinh, có thể làm ngay trên lớp, cũng có thể làm bài tập về nhà
2. Từ mới: Toàn bộ phần từ mới đều chú từ loại, phiên âm và nghĩa tiếng Việt.
3. Chú thích: Phần này giải thích những câu khó trong bài đọc và kiến thức bối cảnh văn hóa liên quan.
4. Cách dùng từ ngữ: Từ mỗi bài chọn ra một số từ ngữ hoặc kết cấu trọng điểm để giải thích và nêu ví dụ minh họa.
5. So sánh cách dùng từ ngữ: Đến giai đoạn trung cấp, người học tiếng Hán tự nhiên sẽ cảm thấy khó khăn khi dùng từ đồng nghĩa và từ cận nghĩa, phần này được biên soạn chính là nhằm vào điểm này. Nếu nắm vững được thì đây sẽ là nền tảng vững chắc cho người học khi học lên giai đoạn cao hơn.
6. Bài tập: Phần bài tập của giáo trình này được chia làm mười phần, bao gồm: Luyện tập ngữ âm, phối hợp từ ngữ, chọn từ điền vào chỗ trống, hoàn thành câu, hoàn thành hội thoại, nối câu thành đoạn, hoàn thành thành ngữ và dùng thành ngữ đỏ đặt câu, sửa câu sai, diễn đạt theo tình huống, điền trống tổng hợp.
Ngoài ra để tăng thêm sự hứng thú cho người học, người soạn đã chọn ra một số mẩu chuyện dí dỏm đưa vào phần "Vui học Hán ngữ" để giúp người học thư giãn sau khi học.
Ở cuối sách có đáp án tham khảo của phần bài tập để người học có thể tham khảo thêm.
Nuôi dạy trẻ là một chuyến hành trình tốt đẹp. Chúng ta không cần phải đối đầu với trẻ; đó là việc trái với bản chất tự nhiên của con người. Tất cả chúng ta đều được ràng buộc với nhau bởi các mối liên kết, sự gần gũi, và tình yêu thương. Phương pháp nuôi dạy trẻ tích cực sẽ giúp chúng ta thoát khỏi vai trò cha mẹ truyền thống từng tạo ra những đứa trẻ nổi loạn, thay vào đó, chúng ta sẽ chuyển sang một vai trò tự nhiên hơn, tạo ra sự hợp tác của trẻ. Những xung đột không thể tránh được phát sinh trong mối quan hệ cha mẹ - con cái từ bây giờ sẽ trở thành viên gạch lát đường đi đến sự thấu hiểu và kết nối tốt đẹp hơn.
Nội dung sách gồm 2 phần:
Phần 1: Lý thuyết nuôi dạy trẻ tích cực
Phần 2: Thực hành phương pháp nuôi dạy trẻ tích cực
Hỗ trợ học tập hiệu quả với tài liệu PDF, Word - SachTruyen.com.vn chia sẻ các tài liệu học tập chất lượng, bao gồm sách, bài tập, đề thi, giúp người dùng học tập hiệu quả và đạt kết quả cao trong các kỳ thi.
DANH MỤC NỔI BẬT
Tài Liệu Toán, Tài liệu Tiếng Anh, Tài Liệu Công Dân, Tài Liệu Địa Lí, Tài Liệu Lịch Sử, Tài Liệu Sinh Học, Tài Liệu Ngữ Văn, Tài Liệu Hóa Học, Tài Liệu Vật lí.
VỀ CHÚNG TÔI